Hiển thị các bài đăng có nhãn Động. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Động. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Động Vân Trình - Ninh Bình

Động Vân Trình rộng gần 3500m², là một động lớn nhất và đẹp nhất của tỉnh Ninh Bình. Động Vân Trình nằm trong núi Mõ thuộc thôn Vân Trình, xã Thượng Hoà, huyện Nho Quan. Núi Mõ là tên gọi tượng hình của dân gian, còn tên chữ thời xưa gọi là núi Thổ Tích.

Động còn có tên gọi là Giáng tiên. Huyền thoại kể rằng muốn giúp cho người trần nuôi con khoẻ mạnh, xinh đẹp, nàng tiên con út của trời đã xuống, thấy vùng này có phong cảnh ngoạn mục nên dừng chân dùng động làm nơi trú ngụ. Nàng đã cho xây nhiều bể tắm trong động. Nước trong bể lúc nào cũng đầy và trong. Về sau nàng tiên về trời, dân địa phương đã lập đền thờ nàng trước cửa động. Từ đó có tên gọi là Giáng Tiên.

Tương truyền những nhà nghèo, hiếm con hoặc nuôi con khó, vất vả đều đến để cầu khấn Tiên giúp đỡ. Họ thường mua một tấm vải đặt lễ cúng tại đền cửa hang xin Tiên phù hộ. Hôm sau, họ trở lại không thấy miếng vải đâu, chỉ xuất hiện chiếc áo lọt lòng. Đem về họ cho con mặc, con lớn nhanh và khoẻ mạnh.

Không chỉ có người dân đến lễ bái ở đền, các quan chức thời trước cách mạng tháng 8 năm 1945 hiếm con, nuôi con khó khăn cũng đến đây lễ bái cầu tự, lấy nước và xin thuốc tiên rất đông. Nhân dân địa phương phải phục dịch đón tiếp, khiêng các quan từ bờ sông lên cửa động rất vất vả và tốn kém. Họ bàn nhau lấp cửa động để cho quan lại không đến đây nữa. Từ đó động có thêm một tên nữa: Hang Lấp.

Đến chân núi Mõ, men theo sườn núi, bước lên cao khoảng 3m, du khách tới nhà nghỉ của trạm du lịch. Ngồi ở đây ít phút du khách sẽ bắt đầu chuyến leo núi vào Động Vân Trình. Du khách bước lên khoảng 80 bậc như bậc cầu thang trong nhà là đến cửa động.

Cửa động có độ cao khoảng 15 mét so với chân núi, cửa động chỉ cao có 1,5 m, rộng hơn 1m. Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le, một cao, một thấp nên gọi là Hang Thượng, Hang Hạ.

Hang Hạ là hang Cả được chia làm hai khu ngăn cách bởi một bức bình phong nhũ đá. Bước tiếp xuống du khách nhìn lên cao thấy có những khối nhũ đá giống như những quả phật thủ khổng lồ. Thành hang bên tay phải là rất nhiều nhũ đá chảy dài như những sợi dây đàn hay còn giống như mái tóc mượt mà của các cô gái. Phải bước xuống 63 bậc, du khách mới tới nền động.

Lòng động đột ngột mở ra một không gian rộng lớn. Du khách có cảm giác như đang đứng trong một toà lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ. Thành hang bên phải có nhũng dải nhũ đá nhẵn lì rộng, dài nhô ra đường chỉ mỏng nhẹ, trông như những tấm lụa trắng phơi bay trong gió.

Trong hang có bức bình phong nhũ đá rất đẹp, cao gần 7m, dài trên 10m, rộng 1m, ngăn động làm hai cung, hai bức bình phong đều được điểm tô bởi những đám mây cao thấp, phía xa là cảnh núi rừng có những muông thú và dòng sông - một bức tranh thuỷ mặc hữu tình được bàn tay thượng đế trau chuốt tỉ mỉ. Vòm động cao vút, lồng lộng màu thạch nhũ xanh như dát ngọc. Lại có những chùm hoa đá rực rỡ, những khối "kim cương" chợt loé lên bao sắc màu óng ánh khi đèn pin chiếu vào.

Xung quanh thành hang, tạo hoá như treo sẵn những bức tranh, các mảng điêu khắc, chạm nổi những nhân vật trong các câu chuyện cổ tích xưa. Chính những giọt nước trong suốt, miệt mài, kiên định bao đời đã tạo nên những kiệt tác như vậy.

Cũng từ thành động phía Tây có đường lên hang Thượng ở trên cao so với nền động khoảng 6m. Nền hang rộng đến 150m², nhấp nhô toàn nhũ đá nhỏ như hình người ngồi, đứng - vì thế nơi đây được gọi là chợ Trời.

Nền hang phẳng nhưng lại đùn lên vô vàn nhũ đá có hình thù khác nhau như: Cây đèn, cây nến, con nghê chầu, chim đại bàng, con hổ, con rùa, cung nữ đứng hầu, và cả quan thái giám..., tất cả những con vật đó như được hoá đá nơi đây. Trên đỉnh động có một lỗ thông thiên hay còn gọi là 'mắt trời'- nơi âm dương tương ngộ, đất trời giao hòa. Đi sâu vào trong động, du khách càng như lạc vào cõi bồng lai.

Một điều đặc biệt là nếu nhìn kỹ trên sàn động, du khách sẽ bắt gặp nhũng hòn đá nhỏ tròn như quả trứng vịt, trúng gà, viên bi, hạt đậu rất nhẫn, màu đen nhu hạt na, nhưng rất chắc khác hẳn kiểu nhũ đá trong động. Các nhà khoa học sơ bộ đã giải thích chúng ra đời cùng với thời kỳ hình thành động. Tương truyền, người xưa thường vào động, lấy chúng đem mài để uống sẽ chữa được một số bệnh.

Vân Trình ngày nay vẫn giữ được vẻ đẹp vốn hữu hình, trinh nguyên của đá. Mỗi bước đi du khách lại phát hiện thêm những điều mới lạ, cảm nhận một cảnh trí khác nhau, đẹp mê hồn, không sao tả hết được.

Du lịch, GO! tổng hợp

Khám phá Ngũ Động Bản Ôn

(TTO) - Nằm trong danh sách những điểm đến du lịch của Mộc Châu, nhưng có lẽ ít người biết đến địa danh Ngũ Động Bản Ôn - một quần thể hang động còn hoang sơ nhưng mang một vẻ đẹp đầy lôi cuốn.

< Đồi chè trái tim ở Mộc Châu.

Nhắc tới Mộc Châu (Sơn La), mọi người thường nhớ tới cao nguyên Mộc Châu với những đồi chè mênh mông, những đàn bò sữa gặm cỏ và con thác Dải Yếm nổi tiếng với vẻ đẹp như xuân sắc người con gái tuổi trăng tròn. Nhưng ít ai biết tới một thắng cảnh rất đáng để tham quan, khám phá, đó chính là Ngũ Động Bản Ôn.

< Căn nhà dừng chân dọc đường vào động.

Sau cơn lũ lịch sử năm 2006, Ngũ Động Bản Ôn đã được chính những người dân địa phương khám phá ra. Với vẻ đẹp riêng có, nó nhanh chóng được điền tên vào những điểm đến du lịch của Mộc Châu, nhưng có lẽ do đường vào còn nhiều khó khăn nên chưa được khai thác nhiều. Nhưng cũng chính nhờ thế mà Ngũ Động Bản Ôn vẫn còn giữ trọn nét đẹp hoang sơ của mình.

Từ ngã ba thị trấn Nông Trường - thị trấn Mộc Châu - Sơn La, rẽ sang thị trấn Nông Trường đi thẳng khoảng 7km sẽ có biển chỉ dẫn vào động. Ngũ Động Bản Ôn nằm cách khoảng 1km đường rừng so với địa điểm gửi xe cộ. Quần thể ngũ động bao gồm bốn động chính nằm trên một quả đồi và một động nằm độc lập phía bên tay trái.

Năm hang động được ví với thuyết ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và đều có hệ thống nhũ đá đẹp, được kết tinh qua hàng ngàn năm tạo nên nhiều hình dáng rất ấn tượng.

Thiên nhiên có lẽ đã quá ưu ái khi ban tặng cho nơi đây hẳn năm hang động tuyệt vời như thế. Để tham quan Ngũ Động Bản Ôn có thể sẽ tiêu tốn cả ngày, nên phải chuẩn bị hành trang đầy đủ đồ ăn, nước uống và cần thiết nhất là chuẩn bị cho mình thể lực cùng tinh thần tốt nhất để có thể chinh phục hệ thống hang động tuyệt vời này.

Đường vào động khá dài và có nhiều khá nhiều thử thách. Con đường nhỏ, nhiều đoạn dốc, trơn trượt nên khi di chuyển luôn phải cẩn thận.

Giữa chặng có một căn nhà nhỏ, là trạm nghỉ chân lý tưởng cho khách lữ hành khi đã thấm mệt. Tại đây, các nhóm thường tập trung ăn uống, nghỉ ngơi để nạp đủ năng lượng chinh phục cho hành trình kế tiếp.

< Vẻ đẹp của nhũ đá trong hang động Bản Ôn.

Đoạn đường còn lại là một khu rừng nguyên sinh rợp bóng mát, dễ bắt gặp nhiều loại cây gỗ quý hiếm. Giữa đường có biển chỉ dẫn khách du lịch tham quan động 4 hay quần thể 4 động còn lại. Sau chặng đường dài, sẽ tới được trước cửa động 3 với cửa động khá hẹp chỉ đủ để từng người đi qua.

Bước vào trong, cảm nhận đầu tiên là động khá rộng và sâu. Ngay ở cửa động là bàn thờ thánh mẫu Âu Cơ mà theo một người dân địa phương thì đây là nơi thăm viếng thường xuyên của người dân Mộc Châu vào ngày lễ tết.


< Thám hiểm Ngũ Động Bản Ôn.

Và thành quả dành cho hành trình dài là vẻ đẹp lung linh của hệ thống nhũ đá. Những mảng nhũ nối tiếp nhau với vô vàn hình dáng, sắc thái, đầy ấn tượng. Tùy theo trí tưởng tượng từng người, có thể cảm nhận khác nhau về hình dáng của các thạch nhũ trong hang như đài sen, cây bạc...
Say mê với vẻ đẹp dường như bất tận ấy, mọi mệt mỏi như tan biến.

Quả thật thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây một tặng phẩm tuyệt vời hiếm nơi nào có được. Chỉ tiếc có nhiều góc khuất trong động khá đẹp nhưng nguy hiểm vì thiếu hệ thống chiếu sáng nên mọi người không thể chinh phục.

Hẹn một ngày quay lại, với hi vọng một ngày nào đó động sẽ được đầu tư bài bản và sẽ là một điểm đến không thể thiếu cho những hành trình đến với Mộc Châu.
Xem thêm >

Theo Hung Mai (báo Tuổi Trẻ)
Du lịch, GO!

Hoang sơ Ngũ động Bản Ôn

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Núi Phượng Hoàng đầu đông

(VnExpress) - Trên núi là bầu không khí mát mẻ, trong lành, dưới chân là dòng nước trong xanh như ngọc, chừng ấy là đủ để du khách tìm về danh thắng bậc nhất Thái Nguyên.

< Đứng từ trên đỉnh núi nhìn xuống làng mạc phủ sương.

Nhắc đến Thái Nguyên chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ đến những đồi chè xanh mướt hay hồ Núi Cốc với biết bao huyền thoại. Ít ai biết rằng, ở mảnh đất gang thép anh hùng cũng tồn tại những hang động nhũ đá tuyệt đẹp làm nao lòng du khách gần xa, trong đó phải kể đến núi Phượng Hoàng thuộc xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai.

Theo quốc lộ 3 từ Hà Nội lên thành phố Thái Nguyên, bạn đi tiếp dọc quốc lộ 1B thêm khoảng 45 km nữa. Trong cơn gió đầu đông se lạnh bạn sẽ thấy hai bên đường, những con phố đông đúc và nhà cao tầng dần được thay thế bằng những ngôi nhà sàn đơn sơ, mộc mạc. Không còn những hàng quán tấp nập mà chỉ là núi đá bao quanh, cứ thế con đường thẳng tắp xuyên qua thung lũng, thấp thoáng những bông hoa vàng cuối vụ.

Tới chân núi Phượng Hoàng, bạn tiếp tục leo những bậc đá uốn lượn theo vách núi. Tuy chỉ dài chưa đầy một cây số nhưng con đường đá này sẽ ngốn của bạn không ít sức lực vì địa hình dốc ngược. Dừng chân nghỉ lại lưng chừng núi, đưa ánh nhìn xuống phía dưới xa xa, bạn sẽ thấy những ô ruộng trơ gốc màu nâu mới gặt, đan xen những luống mạ mới gieo màu xanh nõn. Ánh nắng rực rỡ chiếu rọi qua màn sương đông bàng bạc, bao phủ những ô màu như dệt tấm thổ cẩm ở Võ Nhai.

Lối lên hang mở ra càng lúc càng đẹp. Những lớp lá mùa đông trút xuống, phủ đầy đường, khô khốc, để rồi giòn tan khi mỗi bước chân nhẹ lướt qua đây. Cao quá đầu người là những vạt lau dại mọc ven đường, bông to, trắng muốt, đung đưa theo chiều gió. Chẳng mấy chốc mà đã tới cửa hang. Lúc này, mọi mệt mỏi dường như tan biến bởi hơi gió từ cửa hang ùa ra, mang đến bầu không khí vô cùng dễ chịu.

Bước vào trong bạn sẽ thấy vòm hang rộng có 3 tầng, cao nhất là hang Dơi, ở giữa gọi là hang Sáng và cuối cùng là hang Tối. Các nhũ đá trong hang vô cùng bắt mắt với muôn hình vạn trạng khiến người xem thỏa sức liên tưởng theo trí tưởng tượng của mình. Nhưng có lẽ đẹp nhất là những nhũ đá ở trong hang Sáng. Do hội tụ nhiều ánh sáng nhất, cộng hưởng cùng những giọt nước nhỏ xuống từ mái vòm của hang mà những nhũ đá ở đây có vẻ đẹp lung linh, huyền ảo.

Trong không gian rộng lớn, tràn ngập ánh sáng mặt trời chiếu rọi từ ba cửa hang phía trước, trên trần, nhũ đá buông rèm lấp lánh, tí tách tiếng nhạc nước trong veo, bạn sẽ ngỡ như đang lạc giữa một cung điện xa hoa, lộng lẫy không vướng chút bụi trần. Trái ngược với khung cảnh thần tiên, diễm lệ của hang Sáng là không gian âm u, đầy ma mị của hang Tối, với những cột đá hình thù kỳ quái, không ánh sáng mặt trời. Một chút sợ hãi xâm lấn tâm trí nhưng vẫn đủ để bạn nhận ra vẻ đẹp kiêu hùng của nhũ đá sừng sững như sóng cuộn.

Ra khỏi cửa hang tiếp tục hành trình khám phá, bạn xuôi theo từng phiến đá dưới tán rừng để đến suối Mỏ Gà, nằm dưới chân núi Phượng Hoàng. Khi đã leo núi cả ngày trời thì khi lội xuống lòng suối mát lạnh với vô vàn viên đá cuội nhẵn tròn, đôi chân của bạn sẽ như được vuốt ve, thư giãn. Điều thích thú là dòng suối vốn chỉ cao ngang đầu gối, nhưng lại có một vũng sâu, nước trong có thể bơi vào những ngày nắng ấm.

Nếu thích khám phá, bạn có thể leo lên hang Mỏ Gà, nơi dòng suối chảy ra. Hang không rộng nhưng sâu hun hút và lúc nào cũng mát rượi. Vì hang tối nên bạn sẽ phải dùng đèn pin để khám phá bên trong.

Quanh núi Phượng Hoàng và suối Mỏ Gà hiện chỉ có các dịch vụ giải khát, vì vậy nếu đi về trong ngày bạn nên chuẩn bị đồ ăn. Tuy vậy, ở đây cũng có một số phòng trọ đơn sơ và nhà sàn để phục vụ khách nghỉ lại qua đêm. Do đó, bạn sẽ có cơ hội thưởng thức các món ăn bản địa và nhâm nhi chút rượu nếp ấm lòng.
Xem thêm >

Theo Vy An (VnExpress)
Du lịch, GO!

Tháng 4 và hành trình khám phá núi Phượng Hoàng

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Tú Làn, bức tranh thuỷ mặc...

(Dân trí) - Thung lũng Tú Làn đẹp như bức tranh thủy mặc, được tô điểm thêm bởi con suối Rào Nậy mềm mại uốn lượn quanh co, những ngọn đồi nằm lẻn loi rải rác tạo nên một khung cảnh núi rừng hoang sơ nhưng kiêu kỳ và đầy bí ẩn.

< Dòng suối Rào Nậy giữa núi rừng hoang sơ.

Càng vào sâu, động Tú Làn (Quảng Bình) càng thông rộng. Những hình thù đa dạng và đồ sộ của hệ thống thạch nhũ để lại ấn tượng sâu đậm với những ai dù chỉ một lần được nhìn thấy nó.

Với ai lần đầu tiên đặt chân vào động Tú Làn, chắc chắn sẽ ngỡ ngàng trước một cảnh tượng lộng lẫy hiện ra, vô số đại thạch nhũ đua nhau chen lên ở các vách hang, giữa nền hang, có ba cột nhũ đá vươn vai thẳng đứng với đường kính hơn một mét.

Hang Tú Làn dài khoảng hơn 600m, đẹp hơn hẳn những hang động khác về tuyệt tác thạch nhũ như có bàn tay của ai đó sắp đặt. Càng vào sâu, càng choáng ngợp trước những cột thạch nhũ mọc từ dưới nền hang lên. Những kiến tạo của vỏ trái đất hàng trăm triệu năm trước tạo ra sự đặc biệt về mặt địa mạo của ba hang động này.

Trầm tích thời gian như lắng đọng, được tạo ra bởi hàng tỷ giọt nước từ dòng chảy đá vôi từ hàng triệu năm. Những giọt nước nhỏ xuống, toé ra, kết tủa lại tạo thành từng cột thạch nhủ tráng lệ lạ thường.

Những hình thù được tạo nên từ thạch nhũ khơi gợi trí tưởng tượng của con người, tạo cho người xem có cảm giác như đang lạc vào chốn thần tiên, nhưng lại bắt gặp những hình ảnh dung dị, gần gũi của ngư dân đang chài lưới trên sông, bác nông dân gặt hái trên cánh đồng và hình ảnh các phật ông, phật bà nơi cõi thiêng…
Điều đặc biệt ở hang động này là nhiều rặng thạch nhũ ở đây tráng lệ, trong suốt như pha lê và phát ra âm thanh kỳ bí.

Ngoài ra, tồn tại trong hang còn có một loại cá bơi ngược dòng nước rất kì lạ, chỉ nhỏ bằng ngón út và có khả năng bám vào các loại đá ngay nơi dòng nước chảy xiết.

Người dân địa phương tin rằng, có một dòng nước ngầm nào đó từ Động Phong Nha xuyên qua các dãy núi đá vôi rồi đổ về Hung Tú Làn trong những lúc mưa to, nước lớn.

Thung lũng Tú Làn đẹp như bức tranh thủy mặc, được tô điểm thêm bởi con suối Rào Nậy mềm mại uốn lượn quanh co, những ngọn đồi nằm lẻn loi rải rác tạo nên một khung cảnh núi rừng hoang sơ nhưng kiêu kỳ và đầy bí ẩn.

Núi Tú Làn rộng lớn với 99 đỉnh núi đá vôi khổng lồ, kỳ vĩ giữa trời xanh, chạy dài xa ngút tầm mắt, người dân nói còn vô số hang động khác chưa thể khám phá. Tại khu vực này còn sở hữu một di sản đáng giá khác là hàng trăm loài thực vật, động vật sinh sống trên núi đá vôi một cách hoà bình và kiêu hãnh.
Xem thêm >

Theo Song An (báo Dân Trí)
Du lịch, GO!

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Khám phá Thẩm Púa

(TTO) - Là nơi đặt huy đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ và được người dân bản địa gọi là hang "ông Giáp", nhưng hang Thẩm Púa còn ít được nhiều người biết đến khi đến thăm địa danh "lừng lấy năm châu, chấn động địa cầu" này.

Sau hơn 400km theo đường QL6 từ Hà Nội và vượt qua con đèo Pha Đin - một trong tứ đại đỉnh đèo của Việt Nam - chúng tôi đặt chân tới Điện Biên, vùng đất một thời oanh liệt của cha ông với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng danh. Theo lịch trình, cả nhóm cũng thăm thú các địa danh lừng lẫy Đồi A1, Hầm tướng Đờ-Cát, cánh đồng Mường Thanh...

< Những quả đồi mướt xanh nếp nương.

Nhưng cứ thấy như đã bỏ quên điều gì đó.

Mày mò trên những dòng lịch sử về chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi bắt gặp một chi tiết mà có lẽ ít ai để ý: “Thẩm Púa(tên gọi khác là Thẩm Báng) - nơi người dân đại phương đã phát hiện một số loại rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một số mẩu xương động vật hóa thạch, cũng chính là nơi đặt sở chỉ huy đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại đây ngày 14-1-1954 đã diễn ra hội nghị quan trọng quyết định cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”.

< Núi rừng trùng điệp bên những thung lũng xanh màu lúa nhìn từ cửa hang Thẩm Púa.

Tìm hiểu thêm mới biết Thẩm Púa là một hang nằm dưới chân núi đá vôi Pú Hồng Cáy, thuộc địa phận Bản Pó, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, Điện Biên. Để đi được vào đây, từ km15 Tuần Giáo, phải hỏi thăm nhiều lần và rất khó khăn mới tìm được đường để đi vào hang sau vài lần lạc đường.

Đường đi vô cùng nhỏ và hẹp, một bên là sườn dốc, nhiều đoạn đất sạt lở khá nguy hiểm nhưng cũng vô cùng đẹp với những quả đồi mướt màu xanh của nếp nương.

< Khung cảnh bên ngoài nhìn qua cửa hang.

Sau một hành trình dài vất vả, cuối cùng mọi người cũng đã thấy cửa hang. Hiện ra trước mắt mọi người là một vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ nhưng còn đầy hoang sơ. Ở phía xa ngay trên đỉnh hang xuất hiện những vệt mây đâm thẳng lên trời thật khỏe khắn tựa như thể hiện tinh thần, ý chí bất khuất của con người nơi đây.

Băng qua nương ngô, gặp các thiếu nữ người dân tộc đang chăm chỉ làm rẫy chào khách bằng những nụ cười trìu mến. Các cô hỏi phải nhóm "đi hang “ông Giáp” không?". Qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi với các sơn nữ, chúng tôi mới biết người dân nơi đây vẫn gọi hang Thẩm Púa là hang "ông Giáp" - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh hùng dân tộc vừa mới ra đi về cõi vĩnh hằng ở tuổi 103.

< Một phiến đã có hình miệng rắn trong hang.

Với họ, qua lời kể của những cụ già trong bản, Đại tướng là một con người vô cùng vĩ đại, và tên hang "ông Giáp" vì thế cũng được người dân nơi đây đặt như một cách để tỏ lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc đối với người anh hùng của dân tộc.

Người dân Bản Pó cho biết thi thoảng mới có người vào hang, đoàn gần đây nhất là vào dịp sau tết, còn chủ yếu là người dân địa phương vào để bẫy chim.

Tiếp tục men theo các bậc đá được xây dựng từ thời chiến, mọi người khá vất vả mới leo được vào hang do đường đi đã bị cây cối che khuất. Nhưng không phụ lòng mong đợi của khách phương xa, ngay từ cửa hang đã bắt gặp những bông hoa rừng đẹp rạng rỡ chào đón.

< Một giếng nước sâu trong lòng hang.

Từ cửa hang phóng tầm mắt nhìn ra xung quanh là những mảng màu thân quen của vùng núi phía Bắc. Núi rừng hùng vĩ trùng trùng điệp điệp trải dài ngút mắt, phía dưới là những thung lũng xanh mát màu lúa mới, nắng vàng ươm trên những cánh đồng...

Hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn khá nguyên vẹn, lòng hang rộng, nhiều nơi cao gần 10m. Càng vào sâu bên trong càng gặp nhiều phiến đá to, phẳng như mặt bàn phủ đầy rêu phong.

< Những mảng rêu phong phủ đầy trên vách đá.

Tiếp tục đi, hiện lên trước mắt mọi người là những vách đá, trần đá, măng đá, nhũ đá có hình thù những con rắn, rồng phượng tuyệt đẹp...

Vào sâu hơn, bên cạnh lòng hang, còn có một bàn thờ không rõ thờ ai có vẻ không được trông nom từ lâu. Ánh sáng lúc này cũng đã mờ dần và bắt đầu khó nhìn thấy cảnh vật xung quanh.

Do không chuẩn bị kỹ càng từ trước vì thiếu thông tin nên sau khi đi cố thêm một chút vào trong, chúng tôi không dám mạo hiểm đi tiếp và đành kết thúc hành trình khám phá hang trong sự tiếc nuối. Nhưng đường về như càng gần hơn với niềm vui trào dâng khi được khám phá một di tích đặc biệt nơi mảnh đất Điện Biên hào hùng.

Thẩm Púa, hi vọng một ngày nào đó địa danh này sẽ không còn bị lãng quên...
Xem thêm >

Theo Nguyễn Đức Cảnh (Du lịch Tuổi Trẻ)
Du lịch, GO!

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Bí ẩn hang Tố Mộ

(BQB) - Cách đây hơn 4 năm, chúng tôi được anh Đinh Hồng Nhâm ở thôn Quy Hợp 3, xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình dẫn đến xã Tân Hóa để khám phá cụm hang động Tú Làn. Đó là một hệ thống hang gần kề nhau rất đẹp và tráng lệ, thạch nhũ muôn màu muôn vẻ, như: hang Ton, hang Tú Làn, hang Ken, hang Kim và nhiều hang động khác. Riêng tại hang Tố Mộ đang chứa đựng nhiều bí ẩn.

“Vua” Non

Theo những lời kể của các cụ cao niên ở xã Tân Hóa, cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp vào xâm lược nước ta, chúng đã kéo quân về xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa...

Mục đích của Pháp là đóng tại eo Chẹt giữa thôn Cổ Liêm và các thôn Yên Thọ một cái đồn hòng cắt đứt con đường huyết mạch nối huyện Minh Hóa với Tuyên Hóa đi qua đường Cây Khế, đàn áp phong trào cách mạng và cướp bóc dân làng.

Hồi đó, ở làng Cổ Liêm, xã Tân Hóa có người thanh niên cường tráng tên là Cao Non. Cao Non đã mất cha từ khi còn nhỏ, mẹ nuôi anh khôn lớn. Thương mẹ già nghèo khổ, Cao Non đã theo bà con vào rừng lấy mây về bán và thường xuyên ở lại trong rừng. Tối đến, anh ngủ lại bên một con thác và lấy những cây mây khoanh lại thành một “cái ổ” rồi chui vào đó nằm nhằm chống lại cái rét và thú dữ.

Hàng ngày, anh đưa mây ra khỏi rừng bán rồi quay lại giúp dân chuyển mây qua thác. Một hôm, có vị chức sắc trong vùng đi bói thì được thầy phán rằng: trong vùng có một người giỏi đủ đức, đủ tài có thể đứng lên giúp dân chống giặc. Thầy đã chỉ hướng đi, vị trí cụ thể cho các vị chức sắc tìm đến nơi ở của Cao Non. Khi đến nơi, các vị chức sắc đã trân trọng mời anh về giúp dân, giúp nước chống giặc ngoại xâm.

Về đến làng, Cao Non đã tập hợp được một đội quân hàng chục trai tráng khoẻ mạnh. Ban ngày, đội quân này dưới sự chỉ huy của Cao Non ẩn náu trong các hệ thống hang động để tập luyện võ thuật, sản xuất binh khí và bí mật theo dõi tình hình hoạt động của giặc nhằm tìm phương án tác chiến.


< Anh Đinh Hồng Nhâm (bên phải) trong hang Tố Mộ.

Thời gian này, giặc Pháp vẫn chưa xây đồn bốt kiên cố mà dựng lên các trại dã chiến để quân lính tá túc dưới những chân núi đá vôi. Biết giặc Pháp đóng lán dưới chân núi nên đêm đến là Cao Non cùng với đội quân mình xuất hiện trên những ngọn lèn cao dùng cung bắn tên độc và phóng lao tẩm nhựa cây cà boong vào lán trại của lính Pháp. Lán trại bị đốt cháy, binh lính Pháp bị chết và bị thương khá nhiều khiến chúng rất hoang mang, lo sợ. Nhiều lần bị Pháp truy kích, đội quân này đã nhanh chóng ẩn náu và biến mất một cách bí ẩn mà giặc không tài nào hiểu nổi. Nơi đóng quân, ẩn náu của Cao Non ở đâu thực dân Pháp cũng không thể tìm ra được. Có lần, chúng đuổi quân ta đến tận hang Ton rồi mất luôn dấu vết.

Một thời gian sau, mẹ của Cao Non lâm bệnh nặng, ông đã bí mật về thăm mẹ ở thôn Cổ Liêm. Khi gần tới nhà, chưa gặp được mẹ thì ông đã bị bao vây. Một mình ông đã dùng gươm chiến đấu lại cả chục tên lính và cuối cùng đã hy sinh. Dù vậy, hàng đêm quân của Cao Non vẫn tiếp tục xuất hiện trên những lèn cao bắn tên và phóng lao về phía lán trại của giặc Pháp, không cho chúng xây dựng đồn tại đây. Hoảng sợ trước sự tấn công của quân ta, giặc Pháp buộc phải rút khỏi Tân Hóa lên đóng đồn tại vùng Quy Hóa, nay là thị trấn Quy Đạt.


< Một mẫu xương trong hang Tố Mộ.

Cụ Trần Xuân Lạp, 83 tuổi ở thôn 3 Yên Thọ cho biết: “Sự hy sinh của ông Cao Non khiến người dân Tân Hóa nói riêng và vùng Kim Linh nói chung vô cùng thương tiếc. Để tỏ lòng biết ơn công lao của ông, người dân đã tự suy tôn ông là vua và thường gọi là vua “Non”. Đó thực sự là ông vua của lòng dân, do dân tự gọi như thế.

Từ đó, người dân ở đây không dùng từ “Non” trong giao tiếp hàng ngày nữa vì họ cho rằng như thế là “phạm thượng”. Để thay từ “Non”, các chức sắc trong vùng ngồi lại bàn bạc với nhau và thống nhất dùng từ “chợt”. Ví dụ: mít non, măng non thì gọi là mít chợt, măng chợt. Thậm chí, kể cả từ “non trẻ” họ cũng gọi là “chợt trẻ”... Và đến bây giờ, người dân vùng Kim Linh vẫn giữ nguyên cách gọi này.

Giải mã những bí ẩn ở hang Tố Mộ

Cuộc khám phá hang động của anh Đinh Hồng Nhâm bắt đầu cách đây khoảng 40 năm về trước. Ngày đó, anh mới lập gia đình nhưng cuộc sống rất khó khăn. Vì vậy, chàng trai trẻ đã vận động anh em đi làm nghề đánh cá. Trong thời gian làm nghề đánh cá ở đây, anh Nhâm đã phát hiện ra rất nhiều hang động đẹp. Trong đó có hang Ton, hang Tú Làn khô, Tú Làn nước, hang Tố Mộ nước...

Một lần, anh Nhâm đã đánh liều một chuyến khi bơi qua hang Tố Mộ nước rộng chừng 30m, qua một đoạn đường đá tai mèo lô nhô rồi lách qua một cửa hang nhỏ. Qua cửa hang đó, anh phóng đèn vào rồi bỗng giật mình khi thấy hiện ra trước mắt mình là cả một không gian rộng lớn, đầy thạch nhũ. Theo lời kể của anh Nhâm, trước đây trong hang này có hai dãy đá ở hai bên được sắp xếp thẳng hàng. Giữa hai hàng đá có những tảng đá nhiều màu sắc lộng lẫy được kết lại với nhau giống như một ngai vua thường ngồi. Hai bên ngai có 4 cột bằng đá thạch nhũ như được đúc tiện. Hai cột đứng trước cao hơn 1m, hai cột sau thấp thua và đều có mầu mận óng ánh rất đẹp mắt. Phía trước là một bãi cát rất mịn, trên cát có nhiều viên đá có hình dáng như những quả trứng gà, được mài giũa hết sức trơn, bóng giống như ngọc trai, có kích thước lớn nhỏ khác nhau.

Quay lại câu chuyện của ông vua Non và đội quân đánh Pháp cuối thế kỷ XIX, đối chứng với hang động này thì nhiều ý kiến cho rằng: Vua Non đã từng ở đây. Bởi trong những lần đội quân này bị thực dân Pháp truy đuổi chạy đến hang Ton thì mất tích. Từ hang Ton có thể đến hang Tố Mộ khô bằng 2 con đường. Một con đường đi qua hang động Tú Làn rồi bơi qua hang Tố Mộ nước, đi một quãng đường ngắn thì tới.

Cửa hang này rất khó tìm, lại nhỏ và được nhiều thân cây che chắn. Một con đường đến hang Tố Mộ khô nữa là đi từ hang Ton xuống bằng cách đu dây hoặc bắc thang. Bởi hang Ton nằm trên và thông với hang Tố Mộ khô qua một cái hang thẳng đứng, có độ cao khoảng 12m nhưng không thể đi xuống bằng đường bộ. Vậy nên, khi giặc Pháp truy đuổi, đội quân của ông Cao Non đã đu dây để trở về bản doanh nên quân Pháp không thể biết được.

Trở lại với cuộc hành trình của chúng tôi vào hang Tố Mộ năm 2009 cho thấy: Nơi đây đã có dấu hiệu của con người từng sinh sống. Trong hang có rất nhiều gốm sứ, bát đĩa và các vật dụng đã vỡ vụn thành từng mảnh. Ở đó, có rất nhiều bộ xương mà theo anh Nhâm đó là xương người. Bởi địa thế của hang này thì người dân đi làm ăn không bao giờ vào đó để sinh sống, hay chôn người chết cả, muông thú cũng rất khó để tới đây. Ngoài ra, dưới bãi cát mịn trong hang có rất nhiều than củi và một số vật dụng khác của con người.

Giải thích về tên hang Tố Mộ, anh Đinh Hồng Nhâm, anh Đinh Vũ Thường và một số người cao tuổi ở xã Tân Hóa đã cùng chung nhận định: Tên hang động này xuất xứ từ thời ông vua Non. Từ “Mộ” ở đây có thể là mồ mả, liên quan đến những cái chết. Bởi trong hang động này trước đây có rất nhiều xương như đã nói. Còn chữ “Tố” trong tiếng Nguồn có nghĩa là đố. Từ “Tố” có thể được hiểu rằng: Đố ai tìm ra hang động này hay là một sự thách đố của đội quân ông Cao Non đối với thực dân Pháp, nếu vào tới thì nơi đây sẽ biến thành mồ mả của chúng.

Vừa qua, Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh cũng đã phát hiện tại hang Tố Mộ có hai bộ xương người vẫn còn khá nguyên vẹn. Việc phát hiện này cho thấy hai bộ xương hoàn toàn có thể liên quan đến cuộc chiến đấu giữa đội quân ông Cao Non và thực dân Pháp, bổ sung cho cách lý giải về tên hang Tố Mộ của anh Nhâm, anh Thường và những người cao tuổi ở xã Tân Hóa.
Xem thêm >

Theo Xuân Vương (Báo Quảng Bình)
Du lịch, GO!

Tú Làn: hang động đẹp tại Quảng Bình

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Khám phá chùa Địch Lộng

Du khách thăm chùa Địch Lộng sẽ đi từ Hà Nội, theo đường quốc lộ 1A về phía Nam qua cầu Đoan vĩ (còn gọi là cầu Khuất), rẽ tay phải đi khoảng 1km nữa là đến. Chùa Địch Lộng thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

Chùa ở lưng chừng núi Địch Lộng, có độ cao so với chân núi khoảng 80 mét. Hệ thống kiến trúc đình, đền, ở đây được xây dựng dưới chân núi theo thế chữ Tam" trên một khu đất rộng hơn 1ha. với ngôi đình 5 gian mọc sừng sững được gọi là Đình Đá, vì tất cả các cột, tảng, xà đùi, cái bẩy đều bằng đá.

Trước khi lên chùa, du khách vào ngôi đình đá này để tưởng niệm thánh Nguyễn Minh Không và thưởng ngoạn một công trình kiến trúc đình chủ yếu bằng đá. Tám cột đá bằng đá xanh nguyên khối, tròn, to, cao hơn 4m đều được trạm nổi những con rồng lớn đang uốn lượn trong mây để hút nước, cá chép theo nước vượt lên. Có khắc rồng, du khách có cảm giác như được xem một đàn rồng lớn đang bay. Mỗi con rồng quấn quanh cột đều có một dáng vẻ khác nhau rất sống động.

Tám cột quân to, tròn như cột cái khoảng 3m, hai hàng trước sau, mặt tiền đều được trạm khắc nổi các câu đối chữ hán ca ngợi cảnh đẹp nơi đây với những ý tưởng sâu sắc. Tất cả 16 cột đá này đều được đặt trên những tảng đá cổ bồng lớn cao 0,60m. Rất hiếm có ngôi đình nào có toàn bộ phần chính của nhà được làm bằng đá xanh nguyên khối trạm khắc công phu và tỷ mỉ như vậy! ở đây đã thể hiện tài năng trạm khắc đá của các nghệ nhân vùng đất Cố Đô Hoa Lư lịch sử.

Hai bên tả hữu cửa động là 2 tượng Hộ Pháp đối diện nhau như đứng canh cổng chùa, tạo cảm giác tự tin, ấm áp . Vách động bên tay trái du khách ở trên cao 8m, treo 1 quả chuông lớn cao hơn một mét, nặng khoảng một tấn ,đúc ở thời Nguyễn.

Du khách bước sang bên tay phải là đến động thờ Phật. Đây chính là chùa Địch Lộng quay hướng Nam. Trước cửa chùa có các khối đá giống hình voi chầu ,hổ phục ,sư tử chầu như đang canh giữ bảo vệ cửa Phật. Ở đây còn có rất nhiều nhũ đá đẹp lấp lánh như cái dù che, rủ xuống như chuông treo.

Trong chùa có bầy nhiều tượng Phật, các pho tượng phật uy nghiêm, nhân từ do con người tạo dựng hoà nhập với các nhũ đá của thiên nhiên. Tất cả hiện lên linh nghiêm trong ánh đuốc bập bùng và những loé đỏ của hương trầm phảng phất mùi thơm cõi thiền.

Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá, có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Tại đây, du khách sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá có đủ mọi hình dạng ngoại mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.

Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng (Địch nghĩa là sáo, Lộng nghĩa là gió).

Điều độc đáo ở hang Tối và Hang Sáng là các thạch nhũ, lấy đá gõ vào thì lanh lảnh như tiếng chuông. Đó là những thạch cầm của thiên nhiên. Đặc biệt hơn nữa là những rải nhũ đá trong hang lấp lánh bảy sắc cầu vồng và mầu sắc thay đổi theo ánh sáng mặt trời.

Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3.

Theo Tin tức Du Lịch
Du lịch, GO!

Ba động đẹp nhất trời Nam

Được tôn vinh là 3 động đẹp nhất trời Nam, Hương Tích, Bích Động và Địch Lộng còn ấn tượng với du khách nhờ vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của những ngôi chùa nằm trong và ngoài động.

1. Hương Tích - Nam thiên đệ nhất động

Nói đến danh thắng Chùa Hương, Mỹ Đức, Hà Nội, không ai là không biết đến động Hương Tích vốn được mệnh danh là động đẹp nhất trời Nam, nằm cách trung tâm Hà Nội 70 km về phía Tây Nam. Du khách đến đây không khỏi choáng ngợp khi mở ra trước mắt là khung cảnh thênh thang, hun hút của một hàm rồng lớn. Đó chính là cửa động Hương Tích.

Từ đây, du khách vào động Hương Tích bằng cách đi bộ xuống hơn 100 bậc đá. Bạn sẽ thấy bên trái lối vào là vách núi cao khắc 5 chữ "Nam thiên đệ nhất động", do chúa Trịnh Sâm đặt bút đề vào năm 1770 khi tuần du Sơn Nam. Đi sâu xuống động là vô vàn nhũ đá rủ xuống từ trần nhà và nhô lên từ mặt đất với đủ các hình thù kỳ lạ. Nào là hình lợn mẹ, lợn con, đụn rơm, đụn gạo, nào là hình trái bòng, trái bưởi, cây bạc, cây vàng, nào là núi Cậu, núi Cô, khánh đá, cà sa nhũ Phật...

Trong đó ấn tượng nhất là đụn Gạo. Do nằm ở chính giữa, gần lối cửa vào và khá lớn, nên khi nhìn từ cửa động, hòn thạch nhũ này giống như lưỡi trong miệng rồng, tạo sự thích thú cho du khách. Động còn có "đường lên trời" và "lối xuống âm phủ". Đường lên trời là một sườn đá dốc càng leo càng cao, lối xuống âm phủ là một cái khe đưa xuống hang sâu dưới đất.

Đến đây, bạn sẽ cảm nhận được hơi ẩm mát lành tỏa ra từ lòng động, nhờ những giọt nước tí tách ngày đêm chảy từ nhũ đá như dòng sữa mẹ. Thêm vào đó, khung cảnh thơ mộng của dòng suối Yến dẫn vào từ bến Đục, khiến du khách gần xa không khỏi xao lòng khi đặt chân đến động đẹp nhất trời Nam.

2. Bích Động - Nam thiên đệ nhị động

Nằm trong quần thể du lịch của huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Bích Động không chỉ là danh thắng gắn liền với Tam Cốc mà còn được biết đến với danh xưng "Nam thiên đệ nhị động". Bích Động, có nghĩa là "động xanh", được tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du đặt tên vào năm 1773.

Bích Động nằm cách bến Tam Cốc 2 km, phía trước là dòng sông Hoàng Long uốn lượn bên sườn núi, thả đầy hoa sen. Vào mùa sen nở, Bích Động ngào ngạt hương sen khi bên kia sông là cánh đồng lúa chín vàng, tạo nên khung cảnh nên thơ như tranh vẽ. Dọc theo chiều dài Bích Động là Xuyên Thủy động như được tạo hóa xếp từng phiến đá lớn thành mái vòm cung.

Lối vào Xuyên thủy động ở phía sau núi, đối diện với đường vào Bích Động. Tại điểm kết thúc hành trình xuyên thủy động, du khách có thể leo núi để tới động và chùa Bích Động. Điểm hấp dẫn của Bích Động chính là sự kết hợp hài hòa của động, núi và chùa.

Chùa Hạ được xây dựng ngay dưới chân núi Bích Động, có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, mái hai tầng, uốn cong, và cột làm bằng đá liền khối. Sau khoảng 80 bậc đá men quanh sườn núi, du khách sẽ đến chùa Trung nằm ở lưng chừng núi, có kiến trúc bán mái phía ngoài. Nằm trên đỉnh cao nhất là chùa Thượng thợ Phật bà Quan Âm. Từ đây, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh xung quanh Bích Động ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh ngút ngàn, rung reo trong gió.

3. Địch Lộng - Nam thiên đệ tam động

Dù ít được biết đến hơn Hương Tích và Bích Động nhưng vẻ đẹp của Địch Lộng, nằm giữa ranh giới hai tỉnh Hà Nam và Ninh Bình thì không hề thua kém. Sau khi bước qua 105 bậc đá từ chùa Hạ, du khách sẽ đến cửa động đề 6 chữ: "Nham Sơn động, Cổ Am tự". Hai bên cửa động có hai tượng Hộ Pháp và tại mái vòm hang đá cao 8 m treo quả chuông nặng gần một tấn được đúc từ thời nhà Nguyễn.

Động gồm có ba hang nối liền nhau. Trong khi hang ngoài thờ Phật, thì hang Tối, hang Sáng lại giống như một không gian nghệ thuật, hội tụ những tác phẩm chạm khắc tuyệt tác của tạo hóa từ nhũ đá. Không chỉ lấp lánh như cầu vồng, nhũ đá ở đây còn thay đổi màu sắc theo ánh sáng mặt trời, và khi bạn lấy đá gõ vào sẽ nghe lanh lảnh như tiếng chuông.

Do ở vị trí trên cao lại có khoảng lộ thiên, cửa hang thắt hẹp lại, nên mỗi khi có gió thổi mạnh vào trong hang, du khách sẽ nghe thấy âm thanh phát ra như tiếng sáo. Có lẽ vì vậy mà động có tên là Địch Lộng với ý nghĩa "địch" là sáo, "lộng" là gió.

Theo Xã Luận
Du lịch, GO!

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Kỳ thú Hồ Động Tiên

Hang Hồ Động Tiên là một trong những hang động đẹp nhất trên Vịnh Hạ Long. Do chứa đựng những giá trị đặc biệt về địa chất, địa mạo và lịch sử hình thành Vịnh Hạ Long nên đến nay Hồ Động Tiên chỉ dành cho các lớp học giáo dục môi trường sinh thái (Ecoboat) và các nhà nghiên cứu tới tìm hiểu.

Hồ Động Tiên là hang có một hồ nước không sâu lắm, theo truyền thuyết xưa kia có các nàng tiên xuống tắm nơi đây. Những phiến đá lớn trong đây là nơi nằm ngủ các nàng tiên. Hồ Động Tiên có cấu trúc kiểu hang thềm điển hình, với đáy hang nằm cao hơn mặt biển không nhiều, thậm chí lối vào ở cửa hang còn bị ngập nước, phải tôn cao đường lên mới vào được.

< Nhìn bề ngoài, cửa hang Hồ Động Tiên không có gì khác biệt. Khi triều lên, nước biển dâng ngập 1/3 cửa hang.

Hang Hồ Động tiên chia làm ba ngăn, lối qua các ngăn rất là hẹp chỉ có thể từng người qua một, phía sâu trong rất tối, nên khi vào thăm hang hãy nhớ cầm theo đèn pin, khi có ánh sáng chiếu vào lòng hang, chúng ta sẽ thấy được sự lấp lánh của các nhũ đá trong đó.

< Lối vào bên trong hang có chỗ chỉ vừa một người chui lọt.

Khác với tất cả các hang động khác trong Vịnh Hạ Long, trong hang Hồ Động Tiên còn di tích của nhiều nền hang treo bên vách, có dạng những “gác xép” kéo dài.

< Khác biệt nằm ở bên trong: Trên trần hang, nhũ đá buông xuống, lấp lánh tuyệt đẹp…

Theo các nhà khoa học, đó là những phần mặt nền hang được cấu kết tương đối chắc chắn bằng chất CaCO3 mà phần dưới nền đã bị xói mòn do dòng chảy ngầm xuất hiện trong hang qua hàng ngàn năm.

< “Chén Ngọc” trong ngăn thứ 3 của hang Hồ Động Tiên.

< Bên dưới nền hang, nhiều cột nhũ đá mọc lên.

Cũng theo các nhà khoa học, nếu nghiên cứu chi tiết các mảng sót của nền hang đó có thể tìm hiểu được chi tiết tiến trình dâng, hạ của mực nước biển Hạ Long trong kỷ Đệ Tứ (kéo dài khoảng 2 triệu - 1,6 triệu năm trước). Điều đó có ý nghĩa lớn đối với việc khôi phục lịch sử địa chất của khu vực.

< Nhũ đá tạo thành những ô to nhỏ có vách ngăn như thửa ruộng.

Trong hang hiện có nhiều nhũ đá dạng cột rủ xuống chấm nền hiện tại, là cơ sở để đoán định rằng, phía dưới nền hiện tại còn có một nền hang cổ, và còn có nhiều măng đá mọc lên để đỡ những cột nhũ kể trên. Có điều, phân nửa hang phía dưới hiện vẫn bị trầm tích lấp đầy. Đó là một điều bí ẩn chưa được khám phá.

< Đặc biệt, trong bóng tối dày đặc, không có gió lùa vào vẫn có những con cua, nhện, dế sinh sống. Chúng kiếm ăn, sinh tồn thế nào vẫn là bí ẩn.

Từ ngăn thứ hai của hang Hồ Động Tiên có hai cửa thông ra một hồ nước, xung quanh có núi đá vôi bao bọc.

< Những “gác xép” treo trên vách hang là tư liệu quý về quá trình hình thành hang động trên Vịnh Hạ Long.

Người ta gọi những hồ nước kiểu này là áng. Thực chất đây là một phễu karst có phần đáy bị ngập nước. Đó là một loại môi trường sinh thái đặc biệt, vừa biệt lập vừa lưu thông với biển thông qua hệ thống hang ngầm và khe nứt trong đá vôi. Vì thế, trong các áng thường có hệ sinh vật độc đáo, có thể gồm nhiều loài đặc hữu.

Việc cơ quan quản lý chưa cho phép đưa du khách vào hang như các hang động khác trên Vịnh, đã giúp cho các nhũ đá trong hang giữ được trạng thái tự nhiên.

Các khối thạch nhũ ở đây phô diễn hết vẻ long lanh huyền bí của mình. Hàng triệu tinh thể canxit ánh lên kỳ diệu khi có ánh sáng nhẹ dọi vào. Điều đó ở những hang động đã khai thác như Sửng Sốt, Thiên Cung, Đầu Gỗ không bao giờ còn nữa…

Du lịch, GO!